Trải nghiệm “đau khổ” nhất của bạn khi vừa bước chân vào crypto là gì?
Bị rug? Bị scam? Bị quay cuồng trong việc phân biệt giữa passphrase và private key?
Nhưng chừng đó đã là gì so với việc bạn thức tới ba giờ sáng để rồi bị hụt một chiếc kèo alpha vì không đủ token nền tảng để trả phí gas?
Định nghĩa
Trong blockchain, relayer có thể là:
(i) Nơi tổng hợp các lệnh riêng lẻ vào chung một cuốn sổ cái (orderbook) để người dùng có thể lưu trữ và tìm kiếm lệnh bên ngoài blockchain (off-chain); chỉ có giao dịch khớp lệnh cuối cùng mới được gửi lên blockchain. Một ví dụ cho giao thức này là 0x
(ii) Một đơn vị thứ ba thay mặt người dùng thực hiện giao dịch (meta-transactions) và trả phí bằng token nền tảng; đổi lại, người dùng sẽ phải trả cho họ một khoản phí (bằng một đơn vị token khác)
(iii) Một đơn vị thứ ba chịu trách nhiệm làm “cầu nối” giữa các nền tảng blockchain với nhau. Các relayer này sẽ xuất hiện trong những dự án về cross-chain như LayerZero hay RelayChain
Trong bài viết này, chúng ta sẽ chỉ đề cập tới nghĩa thứ hai của một giao thức relayer.
Cách mà cá relayer này hoạt động được gói gọn trong hai chữ: meta-transaction, hay còn gọi là gasless transaction, tức giao dịch không thu phí.
Phía dưới đây là mô tả về cách hoạt động của Gas Station Network (GSN), một hệ thống relayers cho meta-transactions trên Ethereum.
Hiểu đơn giản nhất, meta-transactions là những giao dịch mà trong đó còn kèm thêm dữ liệu về một giao dịch thực (actual transactions) được tạo ra và được kí xác nhận bởi một cá nhân, sau đó được gửi lên blockchain bởi một bên thứ ba (relayer). Paymaster, một hợp đồng thông minh, sẽ là đơn vị chịu trách nhiệm trả phí gas. Đổi lại, người dùng sẽ phải trả thêm một khoản phí dịch vụ. Một hợp đồng thông minh gọi là forwarder sẽ xác thực chữ kí của người gửi và chuyển tiếp yêu cầu tới một hợp đồng nhận. Hợp đồng nhận (recipient contract) ở đây là “điểm đến” cuối cùng mà người gửi muốn tương tác với trong hành trình của mình. Nó sẽ thực hiện giao dịch các actual transactions (bên trong meta-transactions).
Để tránh đi ngược lại với triết lý phi tập trung của blockchain, relayers và paymasters sẽ hoạt động một cách cạnh tranh theo một mạng lưới trên RelayHub. Chính vì vậy, khách hàng sử dụng GSN sẽ không cần phải biết tới danh tính của các relayers này mà vẫn có thể tin tưởng và sử dụng các relay server để chuyển tiếp giao dịch cho mình.
Trên Solana, cách thức mà meta-transactions hoạt động sẽ hơi khác một chút, bởi người dùng có quyền trực tiếp chỉ định người trả phí gas là ai. Người được chỉ định này sẽ phải kí vào giao dịch để giao dịch được thông qua, từ đó giảm bớt được khâu kiểm định và xác nhận của forwarder như trong hệ thống của GSN.
Lấy ví dụ từ dự án Octane (hiện vẫn đang trong giai đoạn alpha), quy trình này diễn ra như sau:
(i) Đầu tiên, người dùng A sẽ thêm vào giao dịch (transaction – viết tắt là txn) của mình hai hướng dẫn: một là chuyển phí cho bên relayer, hai là chỉ định số tiền cần chuyển cho người dùng B (trong trường hợp này, chúng ta cần giả định rằng ví của người dùng A có đủ tiền để trả phí cho relayer và chuyển khoản cho người dùng B, nhưng do không có sẵn SOL trong ví nên người dùng A cần thông qua relayer để gửi tiền cho người dùng B)
(ii) Người dùng A cũng cần cài đặt người trả phí (bằng SOL) là relayer, thay vì là bản thân mình
(iii) Người dùng A kí xác nhận vào txn
(iv) Người dùng A gửi txn này lên API server của relayer
(v) Relayer sẽ xác nhận xem trong txn này, mình đã nhận được phí hay chưa
(vi) Nếu rồi, relayer sẽ kí nhận rồi chuyển chữ kí này lại cho người dùng A
(vii) Người dùng A thêm chữ kí của relayer vào txn rồi gửi lên mạng lưới của Solana
Ưu và nhược điểm của meta-transactions
Ưu điểm đầu tiên của meta-transactions (đối với các blockchain EVM) chính là việc tối giản hóa trải nghiệm người dùng khi bước chân vào crypto. Họ không cần phải sở hữu trước một loại tiền mã hóa nào trước khi có những trải nghiệm đầu tiên với dApp và web3. Việc ứng dụng meta-transactions có thể không cần tới ví phi lưu ký (non-custodial wallet) nhưng đội ngũ developers cần có một hệ thống lưu trữ key hoặc mật khẩu giúp gỡ bỏ những rào cả về mặt kĩ thuật khó hiểu của các loại ví phi tập trung cho người dùng. Bên cạnh đó, việc có một bên thứ ba đứng giữa sắp xếp cũng sẽ giúp giảm bớt gánh nặng lên blockchain bởi nhiều giao dịch đến từ một DApp có thể được xử lý và rút gọn thành một giao dịch cuối cùng để gửi lên blockchain chính.
Tuy nhiên, meta-transaction relayers vẫn phải đối mặt với 2 nhược điểm lớn:
Không phải hợp đồng thông minh nào cũng hỗ trợ meta-transactions
Mặc dù các giao thức relayers có thể sử dụng một “mạng lưới” các relayers để phi tập trung hóa quy trình thực hiện giao dịch cho người dùng nhưng điều này vẫn không thể hoàn toàn đảm bảo được rằng mạng lưới này sẽ không gian lận và lũng đoạn các giao dịch nhằm trục lợi riêng cho mình.
Vì sao relayer quan trọng trong crypto?
Ngoài GSN, một số giao thức DeFi khác cũng có áp dụng meta-transactions để giúp trải nghiệm người dùng trở nên mượt mà hơn. Zero Swap, một dự án aggregator tổng hợp thanh khoản từ các AMMs trên 0x, hay Colony, một dự án về cơ sở hạ tầng cho các tổ chức tự trị phi tập trung (DAO) cũng đã ứng dụng meta-transactions. Gelato Network, một mạng lưới các robot chạy tác vụ tự động (bot) phi tập trung giúp các lập trình viên tự động hóa hoạt động của các hợp đồng thông minh, cũng sử dụng meta-transaction trong hạ tầng của mình. Gelato kết nối các lập trình viên có nhu cầu tự động hóa hợp đồng thông minh với những người điều hành cơ sở hạ tầng (infrastructure operator) chịu trách nhiệm chạy bots để nhận về một khoản phí dịch vụ tương ứng. Để hoàn thành các tác vụ từ người dùng, Gelato cần có phí gas để tương tác với blockchain, và meta-transaction relayer sẽ được sử dụng ở đây để đạt được mục tiêu này.
Tuy nhiên, việc tự xây dựng một hệ thống relayers để ứng dụng meta-transaction cũng sẽ tốn khá nhiều tài nguyên về thời gian và công sức cho các dự án crypto. Chính vì vậy, đã có những giải pháp về meta-transactions được xây dựng để tối ưu hóa quy trình này, trong đó những cái tên nổi bật nhất là GSN (đã nhắc đến ở trên) và Biconomy.
Biconomy hỗ trợ cả giao dịch về DeFi và NFT. Một trong ba sản phẩm chính của họ – Gasless Transactions – sẽ cho phép các dự án khác “tài trợ” phí giao dịch cho người dùng của mình, bất kể đó là giao dịch DeFi hay NFT. Hồi tháng Tám năm 2021, hãng thời trang D&G và UNXD, một nền tảng NFT dành cho các sản phẩm xa xỉ đã hợp tác với Biconomy để thực hiện chiến dịch Glass Box NFT, bao gồm các NFT cho phép người dùng tận hưởng những tiện ích trên cả metaverse lẫn ngoài đời thực từ D&G.
Vào đầu năm nay, hãng thời trang 100 Thieves cũng cộng tác với Biconomy để triển khai chiến dịch airdrop NFT miễn phí tới cộng đồng của mình.
Kết
Mặc dù còn một vài nhược điểm cần khắc phục song không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các relayer trong việc giúp cho trải nghiệm trên các DApps trở nên đỡ “gập ghềnh” hơn, đặc biệt là trong hoàn cảnh các dự án của thị trường crypto đang gặp khó trong việc mở rộng tệp khách hàng mới do yêu cầu hiểu biết về mặt kĩ thuật đối với những người dùng này là khá nhiều.
Có thể ví von xây dựng relayer như việc làm đường cao tốc thu phí tự động, tuy tốn kém và tốn công ban đầu, nhưng lợi ích về hạ tầng giao thông, kết nối mạng lưới sẽ được thông suốt và hiệu quả hơn gấp bội trong tương lai.
Bài viết này nhằm mục đích đưa ra những quan điểm dựa trên số liệu của thị trường gọi vốn trong các giai đoạn để từ đó đưa ra nhận định khách quan về tiềm năng tăng trưởng của các danh mục trong thị trường tiền mã hóa thời gian tới.
Quý 1/2022 vừa qua đã thiết lập kỷ lục mới về số vốn huy động được trong ngành công nghiệp tiền mã hoá, ghi nhận ở mức $10B, thể hiện sự kỳ vọng lớn của các quỹ đầu tư mạo hiểm vào thị trường sôi động này.
Việc hàng tỷ đô la được đổ vào các công ty khởi nghiệp blockchain vẫn đang để lại nhiều hoài nghi cho giới đầu tư rằng liệu đây có phải là một “bong bóng tiền mã hoá” hay không, các loại tài sản được giao dịch có tăng đột biến đến một mức giá vô lý và không bền vững hay không?
Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta sẽ so sánh thị trường gọi vốn trong các chu kỳ tăng trưởng/sụt giảm thị trường. Ở đây, chúng ta sẽ phân biệt các vòng gọi vốn theo 2 giai đoạn chính: Trước khi trưởng thành (Pre-mature) và Sau khi đã trưởng thành (Mature).
Các vòng gọi vốn
Phân loại
Pre-mature
Pre-seed round
Seed round
Strategic round
Mature round
Series round
Chu kì thị trường
Chu kì thị trường đề cập đến một xu hướng hoặc một mô hình xuất hiện trong các giai đoạn của thị trường hoặc các môi trường kinh doanh khác nhau. Chu kì của thị trường hình thành bởi 2 mức giá, giá cao nhất và giá thấp nhất, và ở thị trường tiền mã hoá hiện tại được căn cứ bởi giá trị của Bitcoin.
Trong mỗi chu kỳ thị trường, chúng ta thường thấy xuất hiện những xu hướng được hình thành trong một lĩnh vực / ngành cụ thể do có sự đổi mới trong sản phẩm và điều này dẫn đến việc một số nhóm tài sản trở nên vượt trội hơn vì điều kiện kinh doanh của chúng phù hợp với điều kiện phát triển.
Ở đây chúng ta sẽ bàn về 5 nhóm danh mục chính của thị trường gọi vốn, bao gồm: Infrastructure, CeFi, DeFi, Web3, NFT, theo nguồn dữ liệu lấy được từ Dove Metrics.
Sự luân chuyển trong dòng vốn
Cơ sở hạ tầng
Thời điểm 2017 là giai đoạn hình thành bức tranh tổng quan về ứng dụng blockchains, CeFi là lựa chọn an toàn dành cho các quỹ đầu tư mạo hiểm khi trở thành danh mục nhận được nhiều tiền đầu tư nhất, và 5 trên 8 dự án đến từ giai đoạn mở rộng và tăng trưởng (các vòng series). Có thể thấy, các dự án CeFi có mô hình vận hành tương đồng các doanh nghiệp trong truyền thống, và việc đầu tư ở các vòng series thể hiện tâm lý “chắc chắn” hơn đến từ các quỹ khi quyết định xuống tiền cho những mô hình được đảm bảo trong giai đoạn chớm nở của ngành tiền mã hoá.
Những ứng dụng phi tập trung (dApps) mới bắt đầu được hình thành trong giai đoạn này từ sự mở ra của nền tảng hợp đồng thông minh đầu tiên là Ethereum. Do đó, đây là thời điểm các VCs ưu tiên rải vốn cho các dự án làm về cơ sở hạ tầng do các dự án nền tảng khi đó còn sơ khai, hơn nữa, đây sẽ là nơi thu hút thanh khoản đầu tiên và tốt nhất khi các dApps được xây dựng trên đó và mang đến ứng dụng thực sự cho công nghệ blockchain.
Khi những dự án làm về nền tảng hợp đồng thông minh được xây dựng để giải quyết cho vấn đề mở rộng của Ethereum trước đó, nổi bật là Cardano, Solana, Polkadot, v.v, thì điểm đến tiếp theo sẽ là những ứng dụng xây dựng hệ thống giao thương dành cho người dùng. Mặc dù CeFi vẫn là danh mục nhận được nhiều vốn đầu tư nhất trong thời gian 2018 – 2020, tuy nhiên, Infrastructure và DeFi là 2 danh mục có nhiều dự án nhận được đầu tư nhất, đặc biệt với các vòng gọi vốn ươm mầm.
Từ giữa năm 2019, các giải pháp DeFi đã nổi lên như những lựa chọn thay thế cho ngân hàng truyền thống, nơi cho phép người dùng giao dịch, tiết kiệm và kiếm lợi nhuận dựa trên những dịch vụ tài chính giống ngân hàng nhưng phi tập trung. Nhiều giải pháp của DeFi rất mới lạ, có thể mang lại mức lợi nhuận cao hơn thị trường tài chính tập trung.
Sau khi làn sóng DeFi được nổi lên ngay sau tháng 6/2020 với xúc tác chính đến từ việc ra mắt của chương trình khai thác thanh khoản (liquidity farming) của token $COMP do dự án Compound đưa ra vào tháng 5/2020. Sự kiện này cũng khởi xướng cho mùa hè DeFi (DeFi Summer), khi các dự án DeFi khác phân phối token của họ thông qua việc khai thác thanh khoản và tạo ra ngày càng nhiều cơ hội thu lợi nhuận cho người dùng.
Số lượng dự án DeFi ngay sau thời điểm đó đã liên tục tăng lên, thu hút được sự chú ý đến từ các VCs. Đến cuối năm 2020, DeFi đã vượt lên dẫn đầu về số lượng dự án được đầu tư.
Ứng dụng sở hữu nội dung
Khi đã có DeFi mang lại giải pháp giao dịch phi tập trung cho người dùng, NFT nổi lên như một giải pháp dành cho những người sáng tạo nội dung trong các lĩnh vực như âm nhạc, tranh ảnh hay các nội dung nghệ thuật khác. NFT là một loại tài sản độc nhất, được ứng dụng như một bằng sở hữu trí tuệ đối với các tài sản số.
Đến năm 2021, NFT nhận được rất nhiều sự chú ý từ các quỹ đầu tư do các dự án NFT như các bộ sưu tập CryptoPunks, Bored Ape Yacht Club đã thu hút giới truyền thông chính thống và chứng kiến các dự án này đạt mức định giá hàng tỷ đô la.
Tính đến tháng 5/2021, chỉ có 72 dự án trong danh mục NFT gọi vốn thành công, với tổng giá trị gọi vốn ở $777M, so với 180 dự án DeFi ở tổng giá trị $645M. Tuy nhiên, con số này đến cuối năm đã có sự thay đổi rõ rệt, số tiền gọi vốn cho danh mục NFT đối với các vòng hạt giống đạt vị trí thứ 2 – tăng 151 dự án, gọi thêm được $2.3B so với DeFi – tăng 173 dự án, ở mức $1B.
Thấy gì từ dữ liệu quá khứ?
Dòng vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng lý giải cho sự phát triển phù hợp của thị trường, khi mà nền tảng cơ sở được hình thành (Infrastructure), tiếp theo đó đến sự phát triển của các ứng dụng giao thương (DeFi) và các ứng dụng tiêu dùng phục vụ cho yếu tố sở hữu nội dung (NFT)
Cơ sở hạ tầng (Infrastructure) → Hệ thống giao thương (DeFi) → Sở hữu nội dung (NFT)
Trong mỗi giai đoạn của thị trường, đều có những danh mục mới được hình thành và đây luôn là một nhân tố có sự tăng trưởng vượt bậc nhất cả về dòng vốn của quỹ đầu tư lẫn số lượng dự án được ra mắt. Các danh mục được đầu tư sau mỗi chu kỳ của thị trường đều có xu hướng tăng trưởng và trưởng thành hơn, tuy nhiên, yếu tố lợi nhuận đem lại cho nhà đầu tư bị bão hoà theo thời gian.
Hiện tại và dự phóng
Sự hình thành ổn định của Infrastructure khiến nhiều quỹ đầu tư đang dần chuyển hướng đầu tư vốn lớn từ danh mục CeFi sang Infrastructure, thể hiện qua tổng số vốn mà danh mục này kêu gọi được trong các vòng mở rộng. Số lượng các dự án Infrastructure đi vào giai đoạn vận hành và mở rộng doanh thu tăng, mở ra một tiềm năng dài hạn, ổn định hơn cho các quỹ VCs khi rót vốn vào mô hình đã được kiểm chứng.
Bên cạnh đó, việc các nền tảng hợp đồng thông minh bước vào giai đoạn có thể phát triển ổn định, có khả năng mở rộng đến lượng lớn người dùng thì tiềm năng tiếp theo sẽ nằm ở những lớp ứng dụng. Nổi bật trong giai đoạn nửa cuối và đầu năm 2022 đến từ các ứng dụng Web3, cụ thể hơn là các ứng dụng GameFi như Axie Infinity đã tạo ra một đợt sóng lớn thu hút số lượng lớn người dùng tham gia vào thị trường.
Việc này đã khiến cho danh mục Web3 dành được sự chú ý nhiều hơn đến từ các quỹ trong khoảng thời gian 2 quý trở lại đây, chiếm tỉ trọng 31.5% tổng số dự án được đầu tư. Web3 hiện đang dẫn đầu về số lượng cũng như số tiền được rót vào trong phân mục vòng hạt giống, đặc biệt trong số đó, GameFi/Metaverse chiếm tỉ trọng 49.8% tổng số lượng dự án được rót vốn trong danh mục Web3 (source: DoveMetrics).
Qua việc ngày càng có nhiều người sử dụng NFT, những tài sản kỹ thuật số này đang dự báo một kỷ nguyên mới của thế giới kỹ thuật số – kỷ nguyên Metaverse. GameFi / Metaverse có thể là một cánh cửa mang lại một cách tiếp cận dễ dàng hơn cho số đông những người chưa tham gia hoặc chưa hiểu các sản phẩm blockchain. Lớp ứng dụng được kết hợp giữa DeFi và NFT, một bản nâng cấp của các nền tảng User-Generated Content như Facebook, Youtube, v.v, nơi người dùng thật sự sở hữu nội dung mà họ tạo ra và có thể giao thương những nội dung này với nhau mà không bị kiểm soát bởi bất kì các bên kiểm soát nội dung nào khác.
Ngoài ra, Web3 cũng hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích dành cho phía doanh nghiệp bao gồm: giảm thiểu quy trình của doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí và khả năng truy cập được dữ liệu thông tin của người dùng,… Điều này đã được chứng minh từ sự thành công của những studio game truyền thống sau khi chuyển mô hình của mình lên trên Web3.
Tổng kết
Cơ sở hạ tầng (Infrastructure) → Hệ thống giao thương (DeFi) → Sở hữu nội dung (NFT) → Các ứng dụng cho phép người dùng sở hữu và giao thương nội dung (Web3)
Cái gọi là “thế giới ảo siêu thực” hay metaverse được hình thành bởi một tập hợp bao gồm vô số dữ liệu của người dùng, mà người dùng thì ai cũng muốn bảo vệ dữ liệu riêng tư của họ và không muốn bị tập trung hay sở hữu bởi các doanh nghiệp, cá thể thứ ba. Vậy nên, Web3 được coi là cánh cổng mở ra cho việc hiện thực hoá của metaverse qua hệ thống phi tập trung.
Trong giai đoạn “thanh lọc” này của thị trường, giống như cha đẻ của Web2 cho rằng Web3 thật sự nổi lên sau khi bong bóng tiền mã hoá vỡ, với sự hậu thuẫn từ các VCs, các dự án chất lượng trong ngách web3, đặc biệt là những dự án GameFi/Metaverse rất tiềm năng để có được sự bùng nổ tiếp tục trong tương lai. Ngoài ra, còn rất nhiều những dự án Web3 khác làm về âm nhạc, mạng xã hội,… đều có tiềm năng tương tự mà chúng ta nên đón chờ.
Những ví dụ trong bài viết này được sử dụng với mục đích giúp những khái niệm kĩ thuật trở nên dễ hiểu hơn với người đọc nên đã được tối giản hơn so với các chi tiết trong thực tế. Người đọc vui lòng đón nhận những ví dụ này một cách cởi mở và thiện chí.
Năm giờ sáng.
Tiếng xe cảnh sát vang inh ỏi trước cửa nhà.
“Cậu đã bị bắt.”
Jack thức dậy và không hiểu vì sao. Mọi thứ cứ như một cơn ác mộng có thật.
Jack bị lôi đi và bị tra hỏi rất nhiều thứ như một tên phạm tội buôn lậu cực kì nguy hiểm.
Jack ngơ ngác. Anh hoàn toàn trong sạch, thế quái nào mà từ tên tuổi, ngày tháng năm sinh, và cả số tài khoản ngân hàng đều trùng khớp, cứ như thể có một kẻ nào đã sống một cuộc đời tội lỗi khác trong hình hài của anh vậy.
Một cuộc đời bị đánh cắp.
Sự riêng tư của Jack đã bị xâm phạm nghiêm trọng, và giờ anh đang phải đối mặt nguy cơ tù tội trong suốt quãng đời còn lại của mình. Tuy nhiên, bất ngờ thay, chỉ vài ngày trước giờ tuyên án, phía bồi thẩm đoàn đã nhận được một bức thư giấu tên cho biết rằng Jack không phải kẻ phạm tội, và rằng người gửi thư biết chính xác vị trí của tên tội phạm thực sự ở đâu, nhưng lại không được phép nói ra danh tính của hắn ngay trực tiếp trong bức thư này. Nếu bồi thẩm đoàn và người gửi thư có một cuộc gặp gỡ riêng với nhau để trao đổi, sẽ rất khó để công chúng tin rằng hai bên không thông đồng với nhau để đổ oan cho một người vô tội nào khác.
Vậy làm thế nào để người gửi có thể tiết lộ danh tính của thủ phạm thực sự một cách minh bạch nhưng không công khai để giải oan cho Jack?
Sự minh bạch có thể được đảm bảo bằng việc trao đổi thông qua blockchain, và tính riêng tư có thể được thỏa mãn thông qua một số cơ chế đặc thù hơn. Trong bài viết ngày hôm nay, chúng tôi sẽ giới thiệu với độc giả những cơ chế hiện đang được sử dụng bởi một số nền tảng blockchain đảm bảo quyền riêng tư cho các cá nhân tham gia vào mạng lưới của mình.
Trusted Execution Environment (Môi trường thực hiện đáng tin cậy)
Hiểu đơn giản, trong Trusted Execution Environment (TEE), các dữ liệu sẽ nằm tách bạch ra khỏi những bộ phận khác trong bộ vi xử lý, từ đó bảo vệ chúng khỏi bị tấn công từ những tác nhân bên ngoài.Trên blockchain, điều này có nghĩa là các validators không thể biết được những dữ liệu tính toán bên trong đó. Secret Network và Oasis Network là hai nền tảng blockchain đang sử dụng công nghệ này, cụ thể là bộ xử lý SGX (Software Guard Extensions) của Intel, chuyên dùng để cung cấp một TEE cho các dữ liệu nhạy cảm.
Vì thế, nếu người gửi thư nặc danh liên lạc với bồi thẩm đoàn để tiết lộ thông tin về thủ phạm thực sự thông qua những nền tảng blockchain như vậy, anh ta sẽ không cần lo lắng nhiều về tính xác thực của nội dung bức thư đối với bồi thẩm đoàn, và công chúng có thể yên tâm rằng cả hai bên – người gửi thư và bồi thẩm đoàn – không thông đồng với nhau để đổ oan tội cho ai khác.
Tuy nhiên, giải pháp này vẫn có khuyết điểm. Bộ xử lý SGX có một giả định rằng chỉ có bộ xử lý trung tâm (CPU) mới đáng tin cậy, vì vậy lưu trữ các thông tin mật tại đây và cô lập chúng sẽ là một giải pháp an toàn. Chính giả định này đã dẫn đến nguy cơ các kẻ xấu sẽ không tấn công trực tiếp vào hệ thống bảo mật của máy tính mà đi “đường vòng”, hay còn gọi là side-channel attack.1
Một vấn đề khác khi áp dụng TEEs trong blockchain là tấn công hạ cấp (rollback attack). Nguyên nhân chính của vấn đề này là do trạng thái của một blockchain luôn có thể được tua ngược lại, và chính sự “riêng tư” được cung cấp bởi TEEs sẽ tiếp tay cho việc làm sai trái này.2
2. Trộn lẫn
Mixnet là một cơ chế được sử dụng bởi NYM Network. Trong mixnet, đường đi của các giao dịch sẽ bị “tẩy xóa”, khiến cho những người đứng ngoài không thể tìm ra được thông tin cụ thể trong các giao dịch này.
Cụ thể, mixnet của NYM Network giống như một phiên bản nâng cấp của Onion Routing, một phương pháp đảm bảo tính ẩn danh khi giao tiếp trong một hệ thống máy tính. Trong phương pháp này, một tin nhắn (message) sẽ được chia thành nhiều gói nhỏ, và những gói nhỏ này sẽ lần lượt được mã hóa qua nhiều lớp trong quá trình được chuyển đến nơi cần đến. Mixnet tiến thêm một bước xa hơn với phương pháp này thông qua việc xáo trộn những packets đã được mã hóa, khiến cho việc tìm ra tin nhắn gốc càng trở nên khó khăn hơn.
Sau khi đã đến được địa điểm mong muốn, từng lớp mã hóa sẽ được gỡ ra lại thành những gói data nhỏ và được sắp xếp lại theo đúng thứ tự để hợp thành tin nhắn hoàn chỉnh lúc ban đầu.
Đối với người gửi thư nặc danh, anh sẽ viết một bức thư tiết lộ thân phận của thủ phạm để gửi tới bồi thẩm đoàn, xé chúng ra, trộn lẫn lên và đóng gói các mảnh thư ấy với ba lớp bì thư cùng với ba loại keo đặc biệt. Các bức thư này sẽ phải đi qua ba trạm thư khác nhau. Mỗi lần đi qua một trạm, sẽ chỉ có một lớp phong bì được bóc ra. Khi tất cả những mảnh thư này đến được hộp thư của bồi thẩm đoàn, các phong bì sẽ hoàn toàn được gỡ bỏ, và sẽ có một kí hiệu để bên bồi thẩm đoàn sắp xếp lại chúng theo trật tự ban đầu để đọc được thông điệp nguyên bản của người gửi.
Một cơ chế khác theo kiểu trộn lẫn cũng được sử dụng bởi Tornado Cash. Tornado Cash cải thiện quyền riêng tư của giao dịch bằng cách phá vỡ liên kết trên chuỗi giữa địa chỉ nguồn và địa chỉ đích. Nó sử dụng một hợp đồng thông minh chấp nhận tiền gửi ETH và các token khác từ một địa chỉ và cho phép họ rút tiền từ một địa chỉ khác. Khi giao dịch được hoàn tất, quãng đường giao dịch từ người gửi đến người nhận sẽ bị phá vỡ. Tuy nhiên, sự riêng tư trong cơ chế này sẽ không thể được đảm bảo một cách tuyệt đối.3
Ring Signatures (chữ ký dạng vòng)
Đây là một phương pháp được sử dụng bởi Monero, một trong những nền tảng blockchain tiên phong trong việc đảm bảo tính riêng tư trong các giao dịch giữa người dùng.
Quay trở lại với câu chuyện của Jack, chúng ta sẽ thêm vào đó một tình tiết rằng kẻ gửi thư nặc danh thật ra chính là một thành viên trong một băng đảng giang hồ Tam Hoàng mà tên cầm đầu mới chính là thủ phạm thực sự trong tội danh Jack đang phải chịu. Kẻ gửi thư nặc danh ấy đang cảm thấy tội lỗi, và hắn muốn khai ra sự thật nhưng không muốn tiết lộ danh tính của mình. Hắn đã nhân danh băng đảng Tam Hoàng, thu thập những mã khóa công khai (public key) của các thành viên trong hội và kết hợp với mã khóa riêng tư (private key) của mình để ký vào lá thư được gửi đến bồi thẩm đoàn. Như vậy, bồi thẩm đoàn có thể tin chắc rằng bức thư này được viết bởi một thành viên của Tam Hoàng, nhưng không một ai, kể cả những thành viên khác trong băng đảng, có thể biết được danh tính của người gửi thư này.
Ví dụ trên chính là một mô tả được giản lược về cách mà Ring signatures hoạt động.
Trong mạng lưới của Monero, sự riêng tư còn được đảm bảo thông qua địa chỉ ẩn (stealth addresses). Địa chỉ ẩn được sử dụng bởi cả người nhận và người gửi và chỉ có thể dùng trong một lần duy nhất.
Zero-knowledge proof (ZKP)
Đây là một công nghệ độc đáo giúp một cá nhân chứng minh rằng mình biết một sự thật nào đó mà không cần phải trực tiếp nói ra sự thật này.
Một nhánh phát triển khá phổ biến của ZKP hiện nay là ZK-SNARKs. Những dự án tiêu biểu đang sử dụng ZK-SNARKs có thể kể đến là ZCash và Mina.
zk-SNARK đề cập đến một cấu trúc bằng chứng trong đó người xác minh có thể chứng minh việc sở hữu một số thông tin từ người gửi qua một khóa bí mật mà không cần tiết lộ thông tin đó và không có bất kỳ tương tác nào giữa người gửi và người xác minh.
Với cấu trúc “non-interactive”, bằng chứng xác thực chỉ bao gồm một thông điệp duy nhất được gửi từ người gửi đến người xác minh mà không cần phải gửi qua lại nhiều lần giữa người gửi và người xác minh theo phương thức truyền thống.
Trong trường hợp của người gửi thư nặc danh, khi gửi một bức thư khác tới bồi thẩm đoàn để tiết lộ thân phận thực sự của kẻ thủ ác, anh ta sẽ chỉ cần kèm theo đó một thông điệp được mã hóa trên blockchain để có thể chứng minh với công chúng rằng những điều mình biết về tên tội phạm kia hoàn toàn là thật, và rằng anh không hề lén lút trao đổi với bồi thẩm đoàn để đổ oan tội cho người khác.
Hiện tại, cách hiệu quả nhất được biết đến để tạo ra zero-knowledge proof mà có cấu trúc “non-interactive” và đủ ngắn để xuất bản lên trên blockchain là cấu trúc phải có giai đoạn thiết lập ban đầu với một chuỗi tham chiếu chung được chia giữa phương thức và validators, được gọi là số tham chiếu công khai của hệ thống.
Mãi cho đến gần đây, một biến thể khác của SNARKs đã xuất hiện để cải thiện những nhược điểm đã tồn tại trong công nghệ này: zk-STARKs. Giải pháp này đã được phát triển bởi StarkWare, một trong những giải pháp layer 2 nổi tiếng cho Ethereum.
STARK cho phép các developers di chuyển các tính toán và storage ra ngoài chuỗi. Những bằng chứng này sau đó được đặt trở lại chuỗi để bất kỳ bên nào quan tâm có thể xác thực việc tính toán. Di chuyển phần lớn công việc tính toán ra khỏi chuỗi bằng cách sử dụng STARKs cho phép cơ sở hạ tầng blockchain hiện tại mở rộng theo cấp số nhân một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, kích cỡ của bản xác minh thuộc zk-STARKs lớn hơn so với zk-SNARKs, một mặt sẽ giúp nó khó bị tấn công hơn bởi những thuật toán của máy tính lượng tử nhưng đồng thời, dữ liệu cần quản lý sẽ nặng hơn so với zk-SNARKs.
Một trận đại hồng thủy mang tên “Khủng hoảng kinh tế” đã càn quét thế giới, để lại một cú sốc lớn cho toàn thị trường tài chính, đặc biệt là ngành ngân hàng và bất động sản. Hơn hết, nó đã làm xói mòn niềm tin của cộng đồng vào một hệ thống tài chính tập trung, quan liêu với nhiều lỗ hổng.
Chính từ sự xói mòn trong niềm tin ấy, một thế giới mới mang tên blockchain, đã bắt đầu, đánh dấu một kỷ nguyên mới trong cuộc cách mạng công nghệ của loài người.
Trong thế giới đó, mỗi nền tảng blockchain được xem như một quốc gia độc lập mà ở đó, phí gas trong giao dịch được xem như chi phí sinh sống và cơ chế đồng thuận chính là thể chế chính trị của các quốc gia đó.
Bài blog này không có chủ đích đóng khung quan điểm của người đọc vào bất kì quốc gia hay tổ chức chính trị nào ngoài đời thật. Chúng tôi hi vọng rằng các độc giả có thể có một cái nhìn cởi mở với những lưu ý nói trên và tận hưởng những sự so sánh tương đồng này một cách trọn vẹn nhất. Xin cám ơn rất nhiều.
Thời kỳ Cổ sinh: Bitcoin
Cái tên blockchain lần đầu tiên được mô tả vào năm 1991 bởi hai nhà khoa học Stuart Haber và Scott Stornetta trong bài viết “Làm thế nào để đánh dấu thời gian một tài liệu kỹ thuật số”.
Thế nhưng mãi đến năm 2008, thế giới blockchain mới chính thức được hình thành. Bitcoin chính là lãnh thổ đầu tiên xuất hiện trên thế giới này nhằm giải quyết vấn đề Gian lận Lặp chi (Double Spending) mà không cần thông qua một cơ quan trung tâm hay tổ chức tập trung nào, với công khai sáng thuộc về Satoshi Nakamoto.
Mặc dù danh tính của Satoshi chưa bao giờ được tiết lộ, Bitcoin đã và vẫn đang trở thành quốc gia dẫn đầu về vị thế cũng như sức ảnh hưởng trong thế giới blockchain nhờ vào tính phi tập trung tuyệt đối của mình. Sự bành trướng của Bitcoin và blockchain trong những năm trở lại đây đã khiến cho các nhà lập pháp và các nhà đầu tư trong giới tài chính truyền thống để mắt đến chúng như một nguy cơ đối với hệ thống phòng chống rửa tiền kiên cố của họ nhưng đồng thời, đó cũng là một mảnh đất tiềm năng cho dòng tiền của họ có cơ hội chảy vào những thế giới mới, thoát ra khỏi pháo đài cũ kĩ của những kênh đầu tư vốn đã bão hòa về mặt lợi nhuận.
Tuy Bitcoin là cường quốc số một về sức ảnh hưởng trong thế giới blockchain, đây không phải là một địa điểm lý tưởng cho các hoạt động tạo ra giá trị cho loài người. Và một trong số những di sản lớn nhất mà Bitcoin để lại cho thế giới này chính là thể chế chính trị của nó – Proof-of-Work. Di sản ấy đã được các quốc gia được thành lập sau này như Kadena tận dụng để tăng tính phi tập trung cho hệ thống quản trị của mình. Một số quốc gia khác như RSK, DefiChain hay Stacks lại góp phần đem đến sức sống mới cho Bitcoin thông qua việc kết nối với mảnh đất này và đổi lại, họ có được sự bảo vệ (từ thể chế Proof-of-Work) các hoạt động náo nhiệt khác diễn ra trong quốc gia của mình.
Liên minh EVM: Nơi sự sống bắt đầu
Nếu như Bitcoin thống trị thế giới blockchain về sức ảnh hưởng thì Ethereum lại dẫn đầu về sự thịnh vượng. Ethereum, được khai sinh bởi Vitalik Buterin vào năm 2013, đã tạo nên một thể chế chính trị mới mang tên Proof-of-Stake với Bộ máy Hành pháp riêng, gọi là Ethereum Virtual Machine (viết tắt là EVM). Rất nhiều quốc gia ra đời sau này đã sử dụng Bộ máy Hành pháp này, từ đó thành lập nên Liên minh EVM.
Thông qua EVM, Ethereum đã tạo nên một khái niệm mới gọi là Hợp đồng thông minh. Đây chính là một bước tiến quan trọng giúp các hoạt động trên thế giới blockchain trở nên trù phú hơn, đa dạng hơn, đồng thời cũng mang tính thực tiễn và ứng dụng cao hơn.
Có một thực tế khác diễn ra trên Ethereum là mặc dù quốc gia này dẫn đầu về sự thịnh vượng, nó cũng dẫn đầu về khoản chi phí sống vô cùng đắt đỏ. Mức thuế mà các lập trình viên hay các cư dân cần phải nộp khi tham gia xây dựng và sinh sống trên Ethereum, dao động từ mức $5 đến gần $100 tùy vào các hoạt động khác nhau (chưa tính giờ cao điểm), cao hơn rất nhiều so với những quốc gia khác. Nguyên nhân chính của mức sống đắt đỏ này đến từ việc có quá nhiều hoạt động diễn ra tại đây nhưng tài nguyên và đất đai lại hạn hẹp, từ đó dẫn đến sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa cung và cầu. Để giải quyết vấn đề này, nhiều vùng lãnh thổ khác đã được xây dựng xung quanh Ethereum để giảm tải khối lượng công việc trên quốc gia này. Những vùng lãnh thổ này lại được phân chia theo hệ thống cơ sở hạ tầng mà chúng sử dụng để giảm tải công việc trên Ethereum, bao gồm từng nhóm nhỏ sau:
Optimistic Rollup: Đây là nơi các giao dịch được đóng gói lại với nhau (để tiết kiệm không gian và chi phí) và được mặc định là luôn đúng. Để phòng tránh tình trạng gian lận, hệ thống sẽ có cơ chế thưởng cho những ai chứng minh được những gian lận này là thật. Các quốc gia thuộc nhóm này là Arbitrum, Optimism, Boba Network, và Metis.
ZK Rollup: Hạ tầng này hoạt động gần như tương tự với Optimistic Rollup nhưng tình trạng gian lận sẽ được phòng tránh một cách chủ động hơn thông qua các bằng chứng về mật mã. Starkware, zkSync và Immutable X thuộc nhóm này.
State channels: Các giao dịch được hoàn thành bên ngoài blockchain và được bảo mật bởi hệ thống đa chữ kí; sau đó chỉ có hai giao dịch cuối cùng được giải quyết trên chuỗi. Connext, Perun, Raiden, State Channels là thành viên của nhóm này.
Sidechain: Đây là những quốc gia có thể chế chính trị riêng, chạy song song và được kết nối với Ethereum thông qua một cây cầu. Các quốc gia thuộc danh mục này là Polygon, Palm, Ronin và Gnosis Chain.
Plasma: Các quốc gia trong nhóm này có thể có thể chế chính trị riêng nhưng lại được chia sẻ tầng an ninh với Ethereum. Chúng khác với sidechain ở chỗ mỗi khi hoàn tất việc phê chuẩn một nghị quyết, chúng sẽ gửi bản phê chuẩn này đến Ethereum. OMG Network thuộc nhóm quốc gia này.
Validium: Khác với những nhóm khác, các quốc gia thuộc nhóm Validium như StarkEx bảo vệ các hoạt động diễn ra trên quốc gia của mình thông qua những bằng chứng được mã hóa với dữ liệu tính toán được lưu trữ bên ngoài blockchain.
BNB Chain
Mặc dù được xây dựng trên cơ sở hạ tầng của Cosmos, BNB Chain lại thuộc về Liên minh EVM. Đây chính là lí do BNB Chain được đặt cạnh lục địa của các quốc gia thuộc khối EVM và khối Cosmos.
Được hậu thuẫn bởi sàn giao dịch tiền điện tử lớn nhất thế giới, Binance, không ngạc nhiên mấy khi quốc gia này đứng trong top 2 về mức độ thịnh vượng với nhiều dự án chất lượng cao đang được triển khai tại đây. Bên cạnh đó, đây cũng là quốc gia của các dự án GameFi. Đây là nơi hội tụ đủ yếu tố để một dự án GameFi “cất cánh”, bao gồm một cộng đồng sôi nổi, một sàn giao dịch NFT bảo mật tốt, và một sự hỗ trợ rất lớn từ chính những người sáng lập, tức đội ngũ Binance.
BNB Chain đi theo thể chế Proof-of-Authority và Proof-of-Stake ủy quyền (Delegated Proof-of-Stake) để giúp các hoạt động tại đây có thể diễn ra trơn tru trong khi vẫn duy trì được mức phí sinh hoạt hợp lý.
Avalanche
Một cường quốc khác trong khối EVM là Avalanche. Tuy chỉ mới thành lập năm 2020, quốc gia này đã nhanh chóng vươn lên vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng về mức độ thịnh vượng so với những quốc gia thành viên khác. Thể chế chính trị ưu việt chính là yếu tố cốt lõi đưa Avalanche tới thành công ngày hôm nay khi nó đã thu hút được rất nhiều tài nguyên về tài chính lẫn con người đến để xây dựng và sinh sống tại vùng đất mới mẻ, tiện nghi với chi phí sống tương đối thấp này.
Bên cạnh đó, Avalanche cũng hướng tới mục tiêu trở thành một quốc gia tối cao với nhiều vùng lãnh thổ tự trị được xây dựng xung quanh bằng cơ sở hạ tầng sẵn có của Avalanche. Defi Kingdoms, tựa game nổi tiếng từ Harmony, và Swimmer Network, vùng lãnh thổ của game Crabada được phát hành trên Avalanche, là hai trong số những vùng tự trị đầu tiên được khai lập nên từ cơ sở hạ tầng gốc được phát triển bởi Avalanche.
Fantom
Đứng thứ tư về khối lượng tài sản trong Liên minh EVM, Fantom đã thu hút dân nhập cư đến sinh sống và làm giàu tại vùng đất của mình nhờ vào thiết kế theo từng phần (modular architecture) trong cơ sở hạ tầng giúp họ dễ dàng hòa nhập và thích nghi với phong cách sống tại đây.
Mặc dù vậy, Fantom đã gặp phải một cuộc khủng hoảng lớn hồi đầu năm 2022, bắt nguồn từ sự sụp đổ của Solidex, một dự án được triển khai trên Fantom khi ấy, và sự rời đi của Andre Cronje, một trong những người có công dựng lên Fantom. Mới đây nhất, một tổ chức tín dụng trên Fantom, Deus Finance, lại bị tấn công bởi những phần tử hackers, góp phần làm giảm chất lượng sống của cư dân tại đây, từ đó dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám khi các lập trình viên lần lượt di cư sang những vùng đất mới có tiềm năng và an toàn hơn.
Polkadot: Sự trỗi dậy của khái niệm đa chuỗi trong blockchain
Ethereum và Hợp đồng thông minh của Vitalik Buterin đã tạo ra một cuộc Cách mạng trong thế giới blockchain, nhưng điều đó dường như vẫn chưa đủ để níu giữ Gavin Wood, một trong những nhà sáng lập khác của Ethereum, ở lại. Năm 2016, ông rời đi để bắt đầu hành trình chinh phục những vùng đất mới, những vùng đất có khả năng phụng sự tính “phi tập trung” của blockchain tốt hơn.
Và thế là Polkadot ra đời.
Khác với Ethereum, nơi tất cả sự sống và hoạt động đều diễn ra trên một nền tảng duy nhất, Polkadot lại cho phép sự khai sinh của nhiều đô thị vệ tinh được tồn tại song song như một quốc gia thu nhỏ, từ đó giảm tải đi áp lực về khối lượng công việc mà Polkadot phải chịu. Trung tâm của Polkadot là relay-chain, nơi tất cả hoạt động được điều phối, với nhiều para-chain, chính là những đô thị vệ tinh, kết nối đến phần đầu não này để trao đổi với nhau và cũng để được bảo vệ tốt hơn thông qua lực lượng validators tập trung tại đây. Hiện đang có tổng cộng 14 quốc gia tồn tại trên dải lục địa chung mang tên Polkadot, và mỗi quốc gia lại theo đuổi một mục tiêu khác nhau trong việc làm đa dạng hơn hệ sinh thái của lục địa này: Efinity tập trung vào cơ sở hạ tầng cho NFTs, Astar, Phala Network, Clover hay Moonbeam tập trung vào cơ sở hạ tầng cho các Hợp đồng thông minh, Nodle tập trung vào cơ sở hạ tầng của blockchain dành cho công nghệ IoT (Internet kết nối vạn vật), Statemint phục vụ việc triển khai các tài sản số trên mạng lưới Polkadot, còn HydraDX, Interlay, Cetrifuge, Composable Finance, Parallel, Equilibrium và Acala đều tập trung vào mảng DeFi.
Nối liền với dải lục địa Polkadot là Kusama, một vùng lãnh thổ được xây dựng lên để các lập trình viên có môi trường sáng tạo và thử nghiệm những ý tưởng của mình trước khi chính thức triển khai chúng trên Polkadot. Dù thường được xem là một môi trường “giả lập” của Polkadot, Kusama vẫn có những điều kiện để mọi người có thể tham gia xây dựng cũng như một nền kinh tế riêng mà mọi người phải tuân theo khi sinh sống tại đây. Hiện đang có 29 quốc gia đang tồn tại trên vùng lãnh thổ này.
Cosmos: Một vũ trụ blockchains trong thế giới thực?
Polkadot hay Avalanche không phải là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm đa blockchain trên một lãnh thổ để giải quyết vấn đề về khả năng mở rộng của Ethereum. Trước đó, Cosmos cũng từng nghĩ đến điều này.
Vùng lãnh thổ này lần đầu tiên được khai phá bởi Jae Kwon với hạt giống đầu tiên là thuật toán Tendermint BFT. Từ đây, một bộ khung phát triển Cosmos SDK được hình thành, cho phép các lập trình viên dễ dàng xây dựng và chỉnh sửa những blockchain riêng biệt gọi là Zone, được kết nối trực tiếp với Hub, blockchain trung tâm của Cosmos theo thể chế Proof-of-Stake. Những blockchain này sẽ giao tiếp với nhau bằng giao thức giao tiếp xuyên chuỗi Inter-blockchain Communication (IBC); tuy nhiên, cần lưu ý rằng chỉ những blockchain xử lý giao dịch theo hướng tất định (deterministic finality) mới có khả năng sử dụng giao thức này.
Một số quốc gia nổi bật trên lục địa Cosmos bao gồm Terra, Cronos, Osmosis, Evmos, hay THORChain.
Cũng cần nói thêm rằng, Terra từng là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất trên lục địa Cosmos. Đồng tiền quốc nội $LUNA của Terra đã liên tục tăng bất chấp sự ảm đạm của thế giới blockchain nói chung. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, đế chế này đã sụp đổ mà nguyên nhân chính là do cơ chế in ra stablecoin $UST từ $LUNA thiếu chặt chẽ, dẫn đến một vòng lặp chết chóc khi $UST không còn neo được ở mốc $1. Mới đây nhất, đội ngũ sáng lập Terra và cộng đồng đã thông qua biểu quyết tái sinh đất nước này với một đồng quốc nội mới $LUNA, chuyển đồng tiền cũ thành $LUNC (Terra Classic) và sẽ không còn sự xuất hiện của đồng stablecoin $UST trong hệ sinh thái nữa.
Một số quốc gia khác
Bên cạnh những dải lục địa rộng lớn này, cũng có một số quốc đảo nằm riêng biệt và không thuộc về bất kì một Liên minh hay Khối thịnh vượng chung nào, ví dụ như Tron và Solana.
Solana
Solana đang xây dựng đế chế của riêng mình với mục tiêu trở thành một miền đất hứa mới dành cho gaming và NFT. Lợi thế của quốc đảo này nằm ở hệ thống ít quan liêu với tốc độ hoàn thành giao dịch chỉ tính bằng mili giây nhờ vào cơ chế Proof-of-History. Cơ chế này cho phép các validators ghi lại trình tự của các giao dịch, từ đó điều phối hoạt động trong hệ thống tốt hơn. Tuy nhiên, tính nhanh chóng và tiện lợi này cũng chính là một con dao hai lưỡi khi nó ngầm cho phép việc người dùng đổ xô vào mạng lưới rồi gây tắc nghẽn một cách không cần thiết, thậm chí làm tê liệt cả bộ máy và từ đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến các công dân khác ở đất nước này. Trong đề xuất mới nhất, nhóm lãnh đạo của Solana đang có kế hoạch thực hiện việc xác định tỷ trọng staking trong quá trình xác thực giao dịch để giảm thiểu vấn đề này, thay vì luôn luôn chấp nhận tất cả các giao dịch được gửi vào hệ thống.
Bên cạnh đó, Solana cũng đang nỗ lực trong việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác với những khối liên minh khác khác thông qua các blockchain như Velas hoặc thông qua hợp đồng thông minh như NEVM của Neon Labs.
TRON
Dù thành lập vào năm 2017 bởi Justin Sun, Tron dường như bị bỏ lại phía sau so với các quốc gia khác. Vào tháng 6 năm 2018, TRON chính thức đưa ra tuyên bố Độc lập. Vào tháng 10 năm 2018, TRON đã ra mắt bộ máy nhà nước chính thức của riêng mình, máy ảo TRON với bộ công cụ hoàn chỉnh dành cho các nhà phát triển xây dựng sản phẩm trên quốc gia này. Nhưng mọi thứ dường như chỉ dừng lại ở đó. Tuy vậy, nhờ vào khoản phí cố định $1 khi giao dịch đồng stablecoin $USDT, quốc gia này vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay với hơn 35 tỷ $USDT đang lưu thông tại đây, thậm chí còn cao hơn khi so với quốc gia giàu nhất thế giới blockchain là Ethereum.
Ngôn ngữ phổ biến nhất: Rust
Solidity, ngôn ngữ bản địa của Ethereum, quốc gia thịnh vượng nhất trong thế giới blockchain được xem là ngôn ngữ nổi tiếng nhất đối với những người mới bắt đầu lập trình blockchain. Nhiều nền tảng blockchain được xây dựng sau này cũng đã sử dụng Solidity để có thể tích hợp EVM và tham gia liên minh EVM để thu hút được nguồn tài nguyên về nhân lực một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, khái niệm mới về đa blockchain được đề xuất bởi Polkadot hay Cosmos và sự trỗi dậy của những nền tảng blockchain như Solana cũng đã thúc đẩy sự phổ biến của Rust và Golang, hai ngôn ngữ chính được sử dụng trên các lục địa này. Hiện nay, Rust chính là ngôn ngữ lập trình được sử dụng phổ biến nhất trong thế giới blockchain.
Điều gì sẽ diễn ra tiếp theo?
Sau 14 năm hình thành và phát triển, thế giới blockchain ở thời điểm hiện tại đã có sự phân bổ của các thềm lục địa với những quốc gia riêng lẻ cùng những thể chế pháp lý hoặc đường lối phát triển đặc biệt, hoàn toàn độc lập với nhau. Có thể thấy, khái niệm Hợp đồng thông minh và thể chế Proof-of-Stake đã mở ra một thời đại mới thúc đẩy các hoạt động kinh tế, và chính vì lẽ đó, thể chế này đang được áp dụng chủ yếu trong phần lớn các quốc gia trong thế giới blockchain.
Sự kết nối các hoạt động kinh doanh thương mại giữa các quốc gia blockchain với nhau cũng là yếu tố được đề cao cho một tương lai toàn cầu hoá, thúc đẩy việc du nhập, giao thương giữa cư dân các nước, nhưng đồng thời cũng cần đảm bảo các yếu tố về sự an toàn cho người dân sinh sống trên đó. EVM, Polkadot, hay Cosmos đều là những lục địa tiềm năng cho sự mở rộng này trong tương lai. Nhiều sáng kiến mới sẽ được đưa ra để làm phong phú hơn các hệ sinh thái này, từ đó mang lại nhiều sức mạnh hơn cho sự phát triển chung của thế giới blockchain.